Cà phê là một trong những thu nhập chính của Việt Nam từ đầu thế kỷ 20. Năm 1857, cà phê được người Pháp mang vào Việt Nam. Ngành cà phê Việt Nam phát triển từ các đồn điền. Dần dần, ngành cà phê trở thành một lực lượng kinh tế lớn trong nước. Ngày nay, Việt Nam nổi tiếng với cà phê rang xay, máy rang cà phê.
Sau khi bị gián đoạn do Chiến tranh tại Việt Nam. Sản lượng cà phê đã tăng trở lại nhờ cải cách kinh tế. Đạt mức 900.000 tấn vào năm 2000.
Năm 2009, Reuters (một tờ báo lớn trên thế giới) đã công bố xuất khẩu cà phê của Việt Nam đạt mức “ước tính 1,13 triệu tấn”. Tờ báo thể hiện cà phê chỉ đứng sau gạo về giá trị nông sản xuất khẩu từ Việt Nam.
Lịch Sử của Cà Phê Việt Nam
Cà phê được người Pháp trồng ở Việt Nam năm 1857. Từ đó Việt Nam phát triển thành nhà sản xuất cà phê ở châu Á. Đỉnh cao của cà phê Việt Nam là đầu thế kỷ 20. Khi Việt Nam chuyển qua canh tác đồn điền. Coronel là nhà máy cà phê hòa tan đầu tiên ở Việt Nam. Nhà máy được thành lập tại Biên Hòa, Đồng Nai năm 1969. Công suất 80 tấn mỗi năm.
Doanh nghiệp tư nhân được nhà nước cho phép sản xuất và buôn bán năm 1986. Điều này làm tăng sản lượng cà phê. Chính phủ, nhà sản xuất, người trồng hợp tác để xây dựng thương hiệu cà phê trong và ngoài nước. Trong thời gian này, các công ty mới về cà phê được thành lập. Có cả Trung Nguyên, trụ sở tại Đắk Lắk năm 1996. Highlands Coffee thành lập năm 1998. Hai công ty này xây dựng thành công thương hiệu lớn phân phối thông qua mạng lưới các cửa hàng cà phê.
Cuối năm 1990, Việt Nam đã trở thành quốc gia xuất khẩu cà phê thứ 2 thế giới chỉ sau Brazil. Việt Nam tập trung vào cà phê Robusta. Bị đánh giá là kèm hơn cà phê Arabica do vị đắng. Chính phủ đưa ra các giải pháp cải thiện. Như tang cường trồng hạt Arabica cầu đất, phát triển thêm cà phê hạt hỗn hợp. Cà phê đặc sản như kopi luwak (tiếng Việt: cà phê chồn, “cà phê chồn”).
Sản xuất tại Việt Nam
Hầu hết các nhà sản xuất cà phê đều thuộc sở hữu tư nhân và nhà nước. Như Công ty TNHH Cà phê Trung Nguyên, Vietcoffee, Công ty TNHH Hưng Phát và Vinacafe (Tổng công ty Cà phê Quốc gia Việt Nam). Highlands Coffee, nhà sản xuất tư nhân, là công ty tư nhân đầu tiên ở Việt Nam đăng ký cho người Việt Nam ở nước ngoài. Một số công ty quốc tế, chẳng hạn như Nestlé, đã được thành lập tại Việt Nam năm 1990.
Chất lượng hạn chế khả năng xuất khẩu của cà phê Việt Nam. Robusta chiếm 97% tổng sản lượng cà phê của Việt Nam, đạt 1,29 triệu tấn xuất khẩu năm 2012. Sản lượng cà phê Arabica dự kiến sẽ tăng do mở rộng quy mô trồng loại cà phê này. Hiện nay được trồng nhiều ở Cầu đất , Đà Lạt.
Phong cách cà phê ở Việt Nam
Cà phê Việt Nam (vùng Buôn Ma Thuột) có những điểm và cách pha khác với những loại khác:
Các vùng Buôn Ma Thuột đã được các nhà khoa học châu Âu xếp vào loại vi khí hậu. Ở những vùng này, một số giống cà phê khác cũng được trồng, bao gồm Arabica, Catimor, Robusta, Chari (Excelsa). Một số giống Arabica bản địa như Arabica SE. Các nhà sản xuất cà phê Việt Nam pha trộn nhiều loại hạt để có hương vị đặc trưng khác nhau.
Thông thường, cà phê được pha chế trong phin cà phê. Cà phê được phục vụ đưa lên khi nó vẫn đang được pha. Cà phê Việt Nam sữa đặc có đường thay cho sữa tươi. Cà phê được làm ngọt nhờ Sữa Đặc. Dần dần cà phê sữa trở thành văn hóa và khẩu vị của người Việt.
Cà phê còn được pha cùng đá để uống lạnh. Áp dụng cả cà phê không và cà phê sữa.
Cà Phê Việt Nam Ở Các Nước Khác
Ở Mỹ, cà phê kiểu Việt Nam hay bị nhầm với cà phê pha rang kiểu Pháp với rau diếp xoăn. Những người Việt Nam đến tiểu bang của Mỹ vào cuối thế kỷ 20. Họ đã sử dụng cà phê kiểu New Orleans vì không thể mua được cà phê Việt.